Biểu đồ: Số lượng cấy ghép răng ở Trung Quốc từ năm 2011 đến năm 2020 (hàng chục nghìn)
Hiện nay, cấy ghép răng implant đã trở thành một phương pháp thường quy để khắc phục các khuyết điểm của răng. Tuy nhiên, chi phí cao của cấy ghép răng implant đã khiến thị trường này khó thâm nhập trong một thời gian dài. Mặc dù các doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển và sản xuất cấy ghép răng implant trong nước vẫn đang gặp phải những khó khăn về kỹ thuật, do nhiều yếu tố như hỗ trợ chính sách, cải thiện môi trường y tế và nhu cầu tăng trưởng, ngành công nghiệp cấy ghép răng implant của Trung Quốc được kỳ vọng sẽ phát triển nhanh chóng, các doanh nghiệp trong nước sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và thúc đẩy giá thành thấp. Các sản phẩm cấy ghép răng implant chất lượng cao sẽ mang lại lợi ích cho nhiều bệnh nhân hơn.
Nghiên cứu và phát triển vật liệu đang nóng
Cấy ghép implant nha khoa chủ yếu bao gồm ba phần: implant được cấy vào mô xương ổ răng để đóng vai trò là chân răng, mão răng phục hình được lộ ra bên ngoài và trụ abutment kết nối implant và mão răng phục hình thông qua nướu. Ngoài ra, trong quá trình cấy ghép implant nha khoa, vật liệu phục hồi xương và vật liệu màng phục hồi miệng thường được sử dụng. Trong số đó, implant thuộc loại implant của con người, có hàm lượng công nghệ và yêu cầu kỹ thuật cao, chiếm vị trí cốt lõi trong thành phần của implant nha khoa.
Vật liệu cấy ghép lý tưởng phải có các đặc tính an toàn như không độc hại, không gây dị ứng, không gây ung thư và quái thai, khả năng tương thích sinh học tuyệt vời, chống ăn mòn, chống mài mòn và các tính chất cơ học.
Hiện nay, vật liệu được sử dụng trong các sản phẩm cấy ghép được liệt kê tại Trung Quốc chủ yếu bao gồm titan nguyên chất bậc bốn (TA4), hợp kim titan Ti-6Al-4V và hợp kim titan zirconi. Trong số đó, TA4 có đặc tính vật liệu tốt hơn, có thể đáp ứng hiệu quả các điều kiện chức năng của cấy ghép răng miệng và có phạm vi ứng dụng lâm sàng rộng; So với titan nguyên chất, hợp kim titan Ti-6Al-4V có khả năng chống ăn mòn và khả năng gia công tốt hơn, có nhiều ứng dụng lâm sàng hơn, nhưng có thể giải phóng một lượng rất nhỏ ion vanadi và nhôm, gây hại cho cơ thể con người; Hợp kim titan-zirconi có thời gian ứng dụng lâm sàng ngắn và hiện chỉ được sử dụng trong một số ít sản phẩm nhập khẩu.
Điều đáng chú ý là các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan đang không ngừng nghiên cứu và khám phá các vật liệu cấy ghép mới. Các vật liệu hợp kim titan mới (như hợp kim titan-niobi, hợp kim titan-nhôm-niobi, hợp kim titan-niobi-zirconi, v.v.), gốm sinh học và vật liệu composite đều là những điểm nóng nghiên cứu hiện nay. Một số vật liệu này đã bước vào giai đoạn ứng dụng lâm sàng và có triển vọng phát triển tốt.
Quy mô thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng và không gian rộng lớn
Hiện nay, đất nước tôi đã trở thành một trong những thị trường cấy ghép nha khoa phát triển nhanh nhất thế giới. Theo “Báo cáo Ngành Y tế Răng miệng Trung Quốc năm 2020” do Meituan Medical, MedTrend và Viện Nghiên cứu Med+ công bố, số lượng cấy ghép nha khoa tại Trung Quốc đã tăng từ 130.000 ca năm 2011 lên khoảng 4,06 triệu ca vào năm 2020. Tốc độ tăng trưởng đạt 48% (xem biểu đồ để biết chi tiết).
Từ góc độ người tiêu dùng, chi phí cấy ghép răng implant chủ yếu bao gồm phí dịch vụ y tế và phí vật liệu. Chi phí cho một ca cấy ghép răng implant dao động từ vài nghìn đến hàng chục nghìn nhân dân tệ. Chênh lệch giá chủ yếu liên quan đến các yếu tố như vật liệu cấy ghép răng implant, mức độ tiêu thụ của khu vực và đặc điểm của các cơ sở y tế. Tính minh bạch về chi phí phân chia theo từng phân khúc trong ngành vẫn còn thấp. Theo tính toán của Firestone, bằng cách tổng hợp mức giá cấy ghép răng implant theo các khu vực và các cơ sở y tế khác nhau trong nước, giả sử chi phí trung bình của một ca cấy ghép răng implant là 8.000 nhân dân tệ, quy mô thị trường thiết bị cấy ghép răng implant của nước ta vào năm 2020 là khoảng 32,48 tỷ nhân dân tệ.
Cần lưu ý rằng xét trên toàn cầu, tỷ lệ thâm nhập thị trường cấy ghép nha khoa của nước tôi vẫn còn ở mức thấp và còn rất nhiều tiềm năng phát triển. Hiện tại, tỷ lệ thâm nhập của cấy ghép nha khoa tại Hàn Quốc là hơn 5%; tỷ lệ thâm nhập của cấy ghép nha khoa tại các nước và khu vực châu Âu và châu Mỹ chủ yếu là trên 1%; trong khi tỷ lệ thâm nhập của cấy ghép nha khoa tại nước tôi vẫn dưới 0,1%.
Xét về mô hình cạnh tranh thị trường vật liệu cấy ghép lõi, hiện nay, thị phần trong nước chủ yếu do các thương hiệu nhập khẩu chiếm lĩnh. Trong số đó, Aototai và Denteng của Hàn Quốc chiếm hơn một nửa thị phần nhờ lợi thế về giá cả và chất lượng; phần thị phần còn lại chủ yếu do các thương hiệu châu Âu và Mỹ chiếm lĩnh, chẳng hạn như Straumann của Thụy Sĩ, Nobel của Thụy Điển, Dentsply Sirona, Han Ruixiang, Zimmer Bangmei, v.v.
Các công ty cấy ghép nội địa hiện nay có sức cạnh tranh thấp và chưa hình thành được thương hiệu cạnh tranh, với thị phần chưa đến 10%. Có hai lý do chính. Thứ nhất, các doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển cấy ghép nội địa mới hoạt động trong lĩnh vực này chưa lâu, thiếu sự tích lũy về thời gian ứng dụng lâm sàng và xây dựng thương hiệu; Thứ hai, có một khoảng cách lớn giữa cấy ghép nội địa và sản phẩm nhập khẩu cao cấp về ứng dụng vật liệu, quy trình xử lý bề mặt và độ ổn định của sản phẩm. Nhận diện cấy ghép nội địa cho thấy tỷ lệ nội địa hóa của cấy ghép cần được cải thiện khẩn cấp.
Nhiều yếu tố có lợi cho sự phát triển của ngành
Cấy ghép nha khoa có đặc tính tiêu thụ cao, và sự phát triển của ngành công nghiệp này có liên quan mật thiết đến mức thu nhập khả dụng cá nhân. Tại các thành phố hạng nhất phát triển kinh tế của đất nước, do thu nhập khả dụng bình quân đầu người của người dân cao, tỷ lệ thâm nhập của cấy ghép nha khoa cao hơn đáng kể so với các khu vực khác. Dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia cho thấy trong những năm gần đây, thu nhập khả dụng bình quân đầu người của người dân trên cả nước đã tăng đều đặn, từ 18.311 nhân dân tệ năm 2013 lên 35.128 nhân dân tệ năm 2021, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm trên 8%. Đây chắc chắn là động lực nội tại thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp cấy ghép nha khoa.
Sự gia tăng về số lượng các cơ sở y tế nha khoa và bác sĩ nha khoa đã tạo nền tảng y tế cho sự phát triển của ngành cấy ghép răng. Theo Niên giám Thống kê Y tế Trung Quốc, số lượng bệnh viện nha khoa tư nhân ở nước ta đã tăng từ 149 bệnh viện năm 2011 lên 723 bệnh viện vào năm 2019, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 22%; năm 2019, số lượng bác sĩ nha khoa và y sĩ trợ lý ở nước ta đạt 245.000 người, từ năm 2016 đến năm 2019, tốc độ tăng trưởng kép hàng năm đạt 13,6%, đạt mức tăng trưởng nhanh chóng.
Đồng thời, sự phát triển của ngành y tế cũng chịu ảnh hưởng rõ ràng từ chính sách này. Trong hai năm qua, chính quyền cấp tiểu bang và địa phương đã nhiều lần thực hiện mua sắm tập trung vật tư y tế tiêu hao, giúp giảm đáng kể giá thành đầu cuối của vật tư y tế. Tháng 2 năm nay, Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện đã tổ chức họp báo thường kỳ về tiến độ cải cách mua sắm tập trung thuốc và vật tư y tế tiêu hao giá trị cao. Kế hoạch mua sắm tập trung về cơ bản đã hoàn thiện. Là một sản phẩm có giá trị cao trong lĩnh vực vật liệu nha khoa, nếu đưa cấy ghép nha khoa vào phạm vi mua sắm tập trung, giá thành sẽ giảm đáng kể, góp phần thúc đẩy giải phóng nhu cầu.
Ngoài ra, một khi implant nha khoa được đưa vào mua sắm tập trung sẽ có tác động quan trọng đến thị trường implant nha khoa trong nước, giúp các doanh nghiệp trong nước nhanh chóng tăng thị phần, kích thích sự phát triển nhanh chóng của ngành implant trong nước.
Thời gian đăng: 23-07-2022